Men gốm (釉料) và Pháp lang (珐琅) khác nhau như thế nào?
Men gốm
Trong quá trình nung gốm, đất sét (泥料) và các chất bay hơi trong nhiên liệu sẽ trải qua phản ứng hóa học ở nhiệt độ cao, hình thành chất trợ chảy kết tinh, bám vào thành lò. Chất này chứa nhiều oxit canxi, oxit magie, oxit kali, có màu xám sẫm hoặc nâu, trong nghề gốm gọi là mồ hôi lò (窑汗), sáp lò (窑蜡) hoặc cặn lò (窑屎).
Chất liệu men (釉料) dùng để trang trí trên thân ấm tử sa được điều chế từ “mồ hôi lò”, sau đó trộn thêm các khoáng thô chứa các nguyên tố như mangan, coban, đồng, sắt để tạo màu theo ý đồ. Men này cần nung ở nhiệt độ thấp và không kết tinh sau khi nung, bề mặt thường có màu mờ, không trong suốt.
Pháp lang
Vào thời Tùy – Đường, Trung Quốc gọi các nước Ả Rập là Đại Thực (大食, phiên âm từ tiếng Ba Tư Tazi). Trong đó có nước “Phất Lẫm” (拂菻), nổi tiếng với kỹ thuật tráng men thuỷ tinh trên kim loại. Do phiên âm khác nhau, trong các văn bản cổ có nhiều cách ghi như:
• 珐琅 (pháp lang),
• 佛菻嵌 (phất lẫm khảm),
• 法蓝 (phiên âm “fa lan”),
• 富浪,…
Pháp lang (珐琅) có thành phần chính gồm:
• thạch anh (石英 SiO₂),
• trường thạch (长石 feldspar,)
• hàn the (硼砂 borax),
• các chất tạo men như fluorides (chất chứa flo (氟化 vật).
Dù đều là vật liệu thuộc nhóm silicat như men gốm (釉), men lưu ly (琉璃), và thuỷ tinh (玻璃料), nhưng thành phần hóa học của pháp lang khác biệt rõ rệt.
Theo cách phân loại truyền thống:
• Men phủ trên gốm/sứ được gọi là men (釉),
• Men dùng trong kiến trúc được gọi là lưu ly (琉璃),
• Men phủ trên kim loại được gọi là pháp lang (珐琅).
Pháp lang phải nung ở nhiệt độ cao, bề mặt kết tinh sau khi nung.
Phân loại pháp lang theo kỹ thuật chế tác gồm:
• Pháp lang khảm chỉ kim loại (掐丝珐琅),
• Pháp lang đắp nổi khắc lõm (錾胎内填珐琅),
• Pháp lang vẽ tay (画珐琅),
• Pháp lang trong suốt (透明珐琅).
Kỹ nghệ pháp lang Ả Rập truyền vào Trung Quốc sau khi Thành Cát Tư Hãn chinh phạt Đại Thực và bắt các thợ thủ công về Trung Nguyên.
Đến thời Minh – niên hiệu Cảnh Thái (景泰), kỹ thuật pháp lang khảm chỉ kim loại (掐丝珐琅) phát triển đến đỉnh cao, đời sau gọi là Cảnh Thái lam (景泰蓝).
Kỹ thuật pháp lang vẽ tay (画珐琅) hoàn thiện tại châu Âu vào giữa thế kỷ XV, truyền vào Quảng Châu thời Khang Hy nhà Thanh, thường gọi là pháp lang Tây phương (西洋珐琅).