Khắc khô - Khắc ướt là gì?

04-11-2025

“Khắc ướt” là gì?

Khắc ướt (湿刻) là kỹ pháp khắc lên thân ấm tử sa khi bùn ấm còn ẩm. Sau khi dùng kim sáng (明针) làm nhẵn bề mặt phôi, phải đợi một khoảng thời gian để hơi ẩm trên thân ấm bay hơi, bề mặt trở nên trắng và cứng lại. Trong giai đoạn này, nếu dùng dụng cụ để khắc họa thì gọi là “khắc ướt”, tức là khắc khi đất bùn còn ẩm.

Khắc ướt đại thể chia làm hai loại:
1) Khắc bằng dao tre (竹刀刻):

Dùng công cụ nhọn làm từ tre, gỗ, để vạch vẽ trên bề mặt thân ấm còn ẩm. Sách Dương Hiên Trà Hồ Tự - Biệt Phái (阳羡茗壶絮·别派) chép:

“Thời Đại Bân ban đầu là người biết thư pháp, dùng dao tre để vẽ, hoặc đóng ấn, về sau chuyển thành kỹ pháp đi dao để tạo thành chữ, phong thái thư pháp nhàn nhã, tương tự như thư họa 《Hoàng Đình》, 《Lạc Ý》, người đời không sao mô phỏng được, các nhà giám định lấy đó làm căn cứ phân biệt.”

Đây chính là kỹ pháp “khắc dao tre”. Đặc điểm chính là mép chữ hơi lồi lên do đất bị đẩy, dấu khắc vừa có dấu cắt của lưỡi dao, vừa có vết miết cong tròn.
Khi dùng dao tre để khắc chữ trên thân ấm ẩm có độ cong, lực cản rất lớn vì thân ấm khô nhanh trong không khí, độ mềm cứng thay đổi liên tục, không thể dừng giữa chừng.

2) Khắc đôi lưỡi – thấy đáy (双刀见底):

Dùng dao kim loại khắc ra chữ có hai cạnh sắc nhọn hình chữ V, như cách khắc thơ của ấm “Hành Hữu Đường” (行有堂刻诗句圆壶).

Trước thời Quang Tự, các tác phẩm khắc tử sa đa phần là khắc ướt, bao gồm cả những tác phẩm thời Gia Khánh, Đạo Quang của các nghệ nhân như Thiệu Nhị Tuyền (邵二泉), Mạnh Sinh v.v.

“Khắc khô” là gì?

Khắc khô (干刻) là kỹ pháp khắc khi phôi tử sa đã khô, cứng và trắng lên. Xuất hiện từ thời Quang Tự, bắt đầu phổ biến.

Nghệ nhân chuyên khắc chữ tử sa thời đầu là Thiệu Vân Nho (邵云儒), các tác phẩm truyền thế của ông chủ yếu là khắc khô. Sau thời Quang Tự, ngoài các tác phẩm phục cổ, khắc ướt dần biến mất khỏi nghệ thuật khắc tử sa.