Ấm “Hán Quân”

19-11-2025

Ấm “Hán Quân” 汉君 (Cận đại – Vương Uyên Xuân [王寅春] chế)

Đất lục thời Dân Quốc. Kích thước nghiêm cẩn, tỷ lệ hài hòa. Miệng, vòi, quai, núm nắp đều có độ tròn sâu, nắp hơi lõm và vành miệng khớp nhau chặt chẽ, từng chi tiết toát lên thần vận.
Thân ấm khắc dòng chữ: 「何如玉川翁,松风煮秋水」— “Nào sánh với ngài Ngọc Xuyên, dùng gió tùng nấu nước mùa thu”. Giải nghĩa xin xem trang 1013 sách này.


Ấm “Hán Quân” (Cận đại – Cố Cảnh Chu [顾景舟] chế)

Hình khối tròn đầy có lực, đường nét tròn trịa trôi chảy.
Một mặt thân ấm khắc tranh sơn thủy có nhân vật, mặt kia khắc đề từ kèm niên đại rõ ràng, là tác phẩm hiếm có trong các ấm do Cố Cảnh Chu chế tác.

Thời đó, đất lục rất ít, thân ấm này mỏng nhẹ, việc tạo hình và nung đều rất khó đạt chuẩn.
Nắp đóng dấu “Cảnh Châu”, đáy ấm khắc “Vũ Lăng Dật Nhân” (người ẩn cư đất Vũ Lăng), có lẽ là tác phẩm khi Cố Cảnh Chu mới ngoài 20 tuổi.


Ấm “Hán Quân” (Dân Quốc – Triệu Tùng Đình [赵松亭] chế)

Thân ấm hình trống, phần bụng có hai nếp gấp tạo thành dạng dải, từ nếp gấp thu nhỏ dần lên miệng và xuống đáy. Đáy ấm lõm nhẹ, viền giống như vòng chân.
Vòi uốn cong, quai tròn, nắp bằng, núm cầu.
Phần bụng khắc thư pháp: “Tương Giang thủy, Đỗng Đình xuân”.

Lửa tùng mới cháy, tro còn lấm tấm, khí chất cổ xưa đã thành.
Đáy ấm khắc dòng chữ triện “Sùng Khách” (崇蒁), nắp khắc “Đông Khê”. “Đông Khê” chính là Triệu Tùng Đình. “Sùng蒁” đọc là “khách”, là tên hiệu của Ngô Đại Củng (吴大澂). “Sùng蒁” là tên hiệu lúc về già, “Đông Khê” là năm Quang Tự thứ 19 (1893).
Các tác phẩm của Triệu Tùng Đình khắc đề từ đều do ông tự viết hoặc sao chép nét bút của Ngô Đại Củng.


Ấm “Hán Quân” (Dân Quốc – Khâu Lục Đại [邱陆大] chế)

Chế tác vuông vức đĩnh đạc, nắp phẳng ấn xuống, đây là nét đặc biệt của ấm này.
Vai ấm khắc dòng: “Kính tặng tiên sinh Hán Văn, Hữu Nhậm” (汉文先生,右任). Hán Văn tiên sinh chính là lão tướng Hữu Nhậm đời Dân Quốc, khắc thư là do danh gia Triệu Thiếu Đình [陈少亭] thực hiện.