Nguồn gốc địa chất khác nhau sẽ tạo nên sự khác biệt tự nhiên của mạch khoáng (矿脉), dẫn đến hàm lượng sắt và thành phần hóa học của quặng nguyên liệu (原矿) cũng khác nhau; việc nung (烧造) với tính chất và nhiệt độ khác nhau cũng sẽ làm cho thân phôi (坯体) có những thay đổi hóa học khác nhau, từ đó thể hiện kết cấu (质感) và sắc thái (色相) cũng khác nhau.
Màu tím, đỏ son (朱), vàng kem (米黄) của 3 loại đất cơ bản (基泥) là tím, đỏ, xanh lá cây, sở dĩ thường có hiệu ứng màu sắc khác nhau, với màu đỏ son có đậm nhạt, màu tím có đậm nhạt, màu vàng có thay đổi, là do sự khác biệt trong quá trình luyện chế (炼制) và nung thành phẩm (烧成) do con người tạo ra.
Các loại đất được ghi chép trong điển tích như Thiên Thanh Nê (天青泥), Lê Bì Nê (梨皮泥), Đạm Hồng Nê (淡红泥), Thiển Hoàng Nê (浅黄泥), Mật Nê (蜜泥), v.v., sau khi nung thành phẩm sẽ có màu gan sẫm (黯肝色), màu lê đông (冻梨色), màu hoa thông (松花色), màu xanh ngọc đậu (豆碧色), màu đất son (赭色), v.v., là do sự biến đổi (衍化) của 3 loại đất cơ bản (基泥) dưới điều kiện nguồn gốc địa chất (地理成因) tự nhiên ở các vùng sản xuất khác nhau.
Đoạn Nê (段泥) là loại đất Tử Nê (紫泥) và Bổn Sơn Lục Nê (本山绿泥) phân bố rải rác trộn lẫn vào nhau không thể tách rời, sau khi chế biến và nung thành phẩm sẽ có màu đồng cổ (古铜色).
Ấm trà Tử Sa (紫砂壶) được sản xuất trước năm 1957, phần lớn sử dụng nguyên liệu đất Tử Sa (紫砂泥料) từ quặng nguyên liệu (原矿) đơn lẻ hoặc hỗn hợp, màu sắc là màu nung thành phẩm (烧成色) của một hoặc nhiều loại đất Tử Sa từ quặng nguyên liệu (原矿紫砂泥). Bất kể là ấm loại cao, trung hay thấp cấp, bề mặt đều sẽ có những chấm nóng chảy nhỏ (熔点) màu đen và chấm mica (云母点), đây chính là đặc trưng của đất Tử Sa thuần khiết, không nên nhầm lẫn gọi là "điểm lỗi" (疵点).