“Tử Ngọc Âu” (紫玉瓯), “Tử Âu” (紫瓯) là những tên gọi nhã nhặn mà các văn nhân đời Tống dùng để gọi ấm trà Tử Sa Nghi Hưng (宜兴紫砂壶):
Phạm Trọng Yêm (范仲淹) có câu danh ngôn “Hoàng kim nghiễn bạn lục trần phi, tử ngọc âu tâm lôi đào khởi” (nguyên văn: 黄金碾畔绿尘飞,紫玉瓯心雷涛起) trong tác phẩm “Hòa Chương Mẫn Đấu Trà Ca” (和章岷斗茶歌); một người vô danh có câu hát “Tử ngọc âu viên, thiển lãng phiếm xuân tuyết” (nguyên văn: 紫玉瓯圆,浅浪泛春雪) trong “Túy Lạc Phách · Nhất Hộc Châu” (醉落魄 · 一斛珠); Mễ Phất (米芾) có từ “Khinh đào khởi, hương sinh ngọc trần, tuyết tiện tử âu viên” (nguyên văn: 轻涛起,香生玉尘,雪溅紫瓯圆) trong “Mãn Đình Phương: Thiệu Thánh Giáp Tu Mộ Xuân Dữ Chu Thục Nhân Thí Tứ Trà” (满庭芳:绍圣甲戌暮春与周熟仁试赐茶); Âu Dương Tu (欧阳修) có lời tán thán “Hỉ cộng tử âu ngâm thả chước, tiện quân tiêu sái hữu dư tình” (nguyên văn: 喜共紫瓯吟且酌,羡君潇洒有余情) trong “Hòa Mai Công Nghi Khương Trà” (和梅公仪姜茶)...
“Tử Nê” (紫泥) cũng xuất hiện trong tác phẩm của các văn nhân đời Tống: Mai Nghiêu Thần (梅尧臣) có câu thơ hay “Tiểu thạch lãnh tuyền lưu tảo vị, tử nê (chỉ "đoàn trà") tân phẩm phiếm xuân hoa” (nguyên văn: 小石冷泉留早味,紫泥(指“团茶”)新品泛春华) trong “Y Vận Hòa Đỗ Tướng Công Tạ Thái Quân Mô Ký Trà” (依韵和杜相公谢蔡君谟寄茶)...
“Tử Sa” (紫砂) cũng xuất hiện trong các tác phẩm của văn nhân đời Minh: Từ Vị (徐渭) có câu miêu tả “Thanh nhược cựu đề phong Cốc Vũ, tử sa tân quán giản Nghi Hưng” (nguyên văn: 青箬旧题封谷雨,紫砂新罐柬宜兴) trong “Huệ Lộc Khổ Tạ Chi” (惠麓苦谢之)...
Các văn nhân nho nhã, mặc dù đã sớm gọi ấm trà đất (砂壶) của Nghi Hưng là “Tử Ngọc Âu” (紫玉瓯) và “Tử Âu” (紫瓯), và họ cũng đã sớm gọi đất sét (砂泥) của Nghi Hưng là “Tử Nê” (紫泥) và “Tử Sa” (紫砂) rồi, nhưng những gì văn nhân thấy là thành phẩm đã nung, còn người làm ấm thì quan tâm đến phôi gốm chưa nung (制坯坏), màu sắc của hai loại này có sự khác biệt rất lớn. Sự lưu truyền của văn tự cần sự đồng bộ về mặt văn hóa; những người làm ấm cần có thời gian rảnh rỗi để nghiên cứu và đánh giá những lời ca ngợi trong thơ ca. Mắt thấy mới tin, dựa vào màu sắc mà đặt tên, nào là “Thanh Nê” (青泥), “Tử Thổ” (紫土), “Chu Sa” (朱砂), đủ loại (五花八门), tên gọi rất đa dạng, nghề này vì thế cũng được gọi là “ngành đất sét” (泥行) hay “ngành đất sét xanh” (青泥业).
Người phương Bắc thì gọi ấm Tử Sa (紫砂壶) là “nê tính hồ” (泥性壶), “ngõa hồ” (瓦壶), “đào hồ” (陶壶), “sa hồ” (砂壶), chỉ là để phân biệt với những loại không đủ tiêu chuẩn.