Ấm tròn “Đôn Túc Cái” (鼎足盖圆壶) – Minh • do Thời Đại Bân (时大彬) chế tác

Toàn thân ấm có màu nâu hạt dẻ (栗色), hơi ngả vàng, bề mặt rải rác đốm trắng nhỏ như vỏ lê (梨皮状小白斑点), đặc biệt rõ ràng ở phần nắp ấm (器盖). Dáng vai đầy (丰肩), cổ đứng (直颈), bụng trống (鼓腹), đáy phẳng (平底), chân giả vòng (假圈足).
Vòi cong (曲流) gắn chính giữa bụng ấm, chỉ có một lỗ nước (独水孔). Quai tròn (圆把), mặt trong đường cong dạng hình trứng (卵形).
Trên mặt cong của nắp có gắn ba chân đôn dẹp úp ngược (倒立三只扁鼎足). Mặt ngoài của mỗi chân có đường cong hướng ra ngoài (外撇弧线), mặt trong là hai vòng cung liền nhau (两个连弧).
Dưới đáy ấm có dòng chữ khắc âm thẳng hàng theo chiều dọc: “Thời Đại Bân chế” (时大彬制), khắc theo kiểu chữ khải (楷书). Nét dao thành thạo, mạnh mẽ, chữ vuông vắn, các nét đầu thường có gập cong tròn (圆折).
Vào ngày 11 tháng 7 năm 1987, chiếc ấm này được khai quật tại thôn Miếu Bộ, xã Bàn Đà, huyện Chương Phổ, tỉnh Phúc Kiến (福建省漳浦县盘驼乡庙埔村). Đây là mộ phần của Lư Duy Trinh (卢维祯, tên tự: Thụy Phong 瑞峰, sống từ năm 1543–1610), từng là Thị lang Bộ Hộ, Bộ Công, dưới triều Minh Vạn Lịch (明万历). Cùng khai quật có cả minh văn bia mộ và các vật phẩm định niên khác.
Viền nắp ấm đã có dấu hiệu mài mòn nhẹ, chứng tỏ đây là món đồ từng được chủ mộ sử dụng lúc sinh thời.
Ấm “Thi Vận” (诗韵壶) – Hiện đại • do Lý Xương Hồng (李昌鸿) và Thẩm Cự Hoa (沈遽华) chế tác

Hình dáng ấm là biến thể của kiểu nắp đôn túc (鼎足盖式).
Trên thân ấm có khắc bài thơ:
“Dời nhà tuy mang theo vách thành,
Lối nhỏ vào giữa ruộng dâu gai.
Cúc ven rào mới trồng chưa nở,
Mùa thu đến vẫn chưa thấy hoa.
Gõ cửa không nghe tiếng chó sủa,
Muốn hỏi sang nhà bên phía Tây.
Báo rằng lên núi rồi chưa về,
Mỗi ngày trở lại lúc nắng nghiêng chiều.”