Sự khác nhau giữa luyện đất thủ công (手工炼泥) và luyện đất bằng máy (机械炼泥) là gì?

11-11-2025

Từ khoáng liệu đến thành đất, thông thường 50 cân (斤) khoáng liệu chỉ có thể luyện ra 3 – 3.5 cân đất, tỷ lệ chuyển đổi chưa đến 10%. Nếu theo cách truyền thống luyện đất thủ công (手工炼泥), mỗi ngày chỉ luyện được khoảng vài trăm cân, còn nếu dùng thiết bị cơ giới thì một ngày có thể luyện được hơn 1.000 cân đất.

Từ năm 1958, khai thác và luyện đất bắt đầu có sự tham gia của máy móc, thêm khuôn ép tạo hình. Nếu đất không có độ dẻo thích hợp thì khâu đổ khuôn và tạo hình trên bàn xoay cũng sẽ bị ảnh hưởng.

Đất luyện bằng máy (机械炼泥), do hạt đá thạch anh (石英颗粒) còn sắc cạnh nên đất chưa được ngâm rửa và thẩm thấu đầy đủ. Nếu bề mặt ấm vừa làm xong có hiện tượng bóng kính, thì đó là kết quả của đất luyện máy bị pha thêm các chất có tính chảy cao. Những chất này sẽ làm thay đổi kết cấu bên trong của đất, giảm độ thoáng khí. Sau thời gian dài nuôi dưỡng, bề mặt ấm sẽ trở nên “bóng loáng” (贼亮), thiếu tự nhiên, không giống như bề mặt ấm luyện thủ công vốn có lớp men tự nhiên, nhuận sắc.

Luyện đất thủ công bằng nghiền đá (手工石磨粉碎炼制), hạt thạch anh có hình cầu, sản phẩm cho bề mặt hạt tròn đều, độ bóng tự nhiên. Vì vậy, các danh gia rất coi trọng đất luyện, thường tự đến núi tuyển khoáng, sau đó hoặc tự luyện, hoặc thuê người luyện thủ công. Những chiếc ấm làm từ đất luyện thủ công sau khi được nuôi dưỡng sẽ có vẻ ngoài nhu nhuận, cổ kính, chất cảm vượt trội hơn cả đồ đồng xanh.


Việc luyện đất tử sa bằng thủ công và bằng máy ảnh hưởng thế nào đến thành phẩm ấm tử sa?

Đất tử sa luyện thủ công, kích thước hạt to nhỏ không đồng đều, khi nung thành phẩm thì tỷ lệ co ngót không đồng nhất, bề mặt lộ rõ hạt, trong độ bóng ẩn hiện cảm giác chất liệu rõ rệt. Bề mặt bên trong do kết cấu xốp tạo thành các lỗ rỗng, có tỷ lệ hút nước khoảng 3~5%.

Đất tử sa luyện bằng máy, kích thước hạt tương đồng, khi nung thì tỷ lệ co ngót gần như nhau, bề mặt gần như không thấy hạt, trong độ bóng thì cảm giác chất liệu mờ nhạt. Kết cấu bên trong chặt đặc tạo thành lỗ rỗng ít, chỉ khoảng 1% tỷ lệ hút nước.