Ấm “Hán Chung”

19-11-2025

Ai sáng tạo ra ấm “Hán Chung” 汉钟 ?

“Chung” là đơn vị đo lường thời cổ. “Tả truyện – Chiêu công năm thứ 3” có ghi: “Một thăng bằng mười đấu, một đấu bằng mười chung”.

Vào thời Xuân Thu, nước Tề có hệ thống đo lường công và tư. Năm 391 TCN, Điền Hòa truất Tề Khang Công và xưng vương. Họ Điền lập nên nước Tề, lấy hệ thống đo tư làm chuẩn: 4 thăng là 1 đậu, 4 đậu là 1 hu, 4 hu là 1 thăng, 10 thăng là 1 chung. Đến thời Chiến Quốc, Tần, Hán, Đường, Tống đều tiếp tục sử dụng.

Dáng “chung” dùng để đặt tên cho ấm, người đầu tiên là Nghi Ứng Chiêu (tên chữ: Tử Trị), được xem là người đầu tiên trong lịch sử chế ấm đặt tên “Hán Chung”, có thể hàm ý đến tiếng vang trầm của tiếng chuông.


“Tử Trị Hán Chung” ấm (Thanh – Nghi Ứng Chiêu chế, Cận đại – phối nắp bởi Cố Cảnh Chu)

Toàn thân ấm dáng cao, vai ấm và thân ấm tròn đầy, vòi cong, tay cầm vút bay nhưng kết nối mượt mà, không để lại vết hằn. Trên thân có đường “vảy cá”, đáy tròn. Trên đường vảy cá có khắc chữ “Hán Chung”, dưới là hàng chữ “Một câu tám lạng tài hoa”.

(Thư pháp theo lối chữ Triện cổ, nét dao khắc sắc sảo). Nắp nguyên bản thất lạc, nắp nhôm do Cố Cảnh Chu phối vào mùa đông năm 1989.


“Chung thức” ấm (Hiện đại phỏng chế)



Trên phần hoa văn vân dây khắc nổi phía trên có khắc chữ “Chung thức”, phía dưới là dòng chữ:
“Vui trà khách quý đến, thơ hay mua về. Nhị Tuyền Thị.”
Đáy có ấn khắc dòng chữ “Tắc tài hằng túc” (tức: có đạo thì luôn đủ).


“Vai lõm Chung” ấm (Dân Quốc – Triệu Tùng Đình chế)

Còn gọi là ấm “chiết thân viên”. Thân hình trụ thẳng, dáng trơn, đáy gấp, vai lõm, cổ thẳng. Đường khớp giữa miệng và nắp theo kiểu “mẫu – tử”, nắp tròn, núm tròn như châu, vòi cong, tay cầm khoen tròn.
Thân ấm có đề khắc chữ “Đông Khê”, đáy có chữ “Tương Dụng” (tiếng Hán: 憲落).

“Đông Khê” là hiệu của Triệu Tùng Đình (xem trang 1092), “Tương Dụng” là hiệu của Ngô Đại Hạo (xem trang 1102)


“Chung” ấm (Thanh – Càn Long niên hiệu – Khương Húc Thao chế)

 
Dáng ấm mô phỏng hình chuông cổ, nắp khít, thân phình ở giữa, đường nét mộc mạc, bề mặt tự nhiên không bóng bẩy. Dùng đất có trộn khoáng để tạo hình, nung ra kết cấu hạt khoáng thô rõ ràng.


“Chung” ấm (Thanh – Đạo Quang niên hiệu – Phan Chí Thao chế)

Thân ấm hình chuông, bụng có đai nổi theo kiểu Tống, nắp bằng, núm tròn như châu, dáng dáng chắc chắn. Đất tím đỏ, vẽ sơn thủy bằng đất trắng.
Đáy khắc triện “Chí Thao bí chế”, khung hình vuông vân hồi; bên trong nắp khắc triện nhỏ “Chí Thao”; đáy có ấn “Dương Châu Phan Chí Thao chế”, tất cả đều là thủ bút của Phan Chí Thao.