“Chu nê”

10-11-2025

“Chu nê” (朱泥) là gì?

Khoáng thô của Chu nê (朱泥) có màu vàng kim hoặc vàng nhạt pha xanh, thời Minh gọi là “Thạch hoàng nê” (石黄泥), đến thời Thanh đổi gọi là Chu nê (朱泥). Hàm lượng ôxít sắt (Fe₂O₃) trong chu nê cao hơn so với các loại tử sa nê khác, dao động từ 14% đến 18%.

Khoáng chu nê nằm sâu dưới tầng đất tại vùng núi Triệu Trang (赵庄山), trấn Đinh Thục (丁蜀镇), Nghi Hưng (宜兴). Đá khoáng ở tầng dưới cùng của mỏ có bề ngoài màu cà phê đậm, độ mịn khi luyện thường từ 140–180 mesh (so với hồng nê (红泥) thường chỉ 60 mesh), sau khi luyện thành thì gọi là Chu nê.

Chu nê khi pha nước nóng sẽ hiển hiện sắc đỏ tươi quyến rũ, trong ánh sáng có ánh tím dao động. Chu nê từng được dùng làm vật liệu cách nhiệt trong ngành hàng không vũ trụ Đài Loan, gọi là “Chu nê không gian” (太空桨泥).

Đặc điểm của Chu nê:
Lượng cát thấp, chất nê mềm mịn, kỹ thuật tạo hình khó, tỷ lệ co rút khi nung có thể lên tới 30–40%, thành phẩm thường chỉ đạt 70%.
Vì vậy thường dùng làm các ấm nhỏ hoặc trang trí lớp ngoài cho các ấm làm từ tử sa khác.
Trên thị trường, một số ấm được gọi là ấm Chu nê nhưng thực chất là hồng nê phối (phối hợp hồng nê với các nguyên liệu khác), không thấy hạt cát rõ ràng trên bề mặt.


Đặc tính chính của Chu nê (朱泥) là gì?
1. Độ kết tinh cao – Mặt cắt của chu nê giống như sứ, khi gõ vào có thể phát ra tiếng kim loại thanh, rõ, vang và cộng hưởng tốt.
2. Màu nê như cam – Trước khi nung, chu nê có màu cam vàng; sau khi nung thành phẩm thì màu đỏ tươi xen chút cam vàng. Khi pha nước nóng sẽ lộ sắc đỏ tươi lấp lánh, ánh khí tím dao động. Sau khi dưỡng lâu sẽ chuyển thành đỏ trầm.
3. Hàm lượng cát thấp – Giống như bản sơn lục (本山绿), sau khi nung gần như không thấy hạt cát trên bề mặt.
4. Tỷ lệ co rút cao – Kỹ thuật tạo hình khó, tỷ lệ co rút khi nung vượt quá 30%, trong quá trình nung dễ biến dạng, tỷ lệ thành phẩm chỉ khoảng 70%, vì thế thường dùng làm đồ nhỏ.
5. Hàm lượng sắt cao – Nhiệt độ nung cao một chút sẽ khiến sắt lộ ra rõ rệt, xuất hiện các đốm đen.