Ấm “Bức Tuyền”

08-11-2025

Ấm “Bức Tuyền” (逼泉壶)

(Trong dân gian hiện nay thường gọi là “Bích Tuyền” 壶)

Có một số nghệ nhân lão thành ở Nghi Hưng kể lại truyền thuyết dân gian như sau:

Tương truyền, Nhị Lang Thần Dương Tiễn (二郎神杨戬) trấn áp một con ác long dưới lòng đất giữa hai tỉnh Giang Tây và Hồ Nam. Đuôi của ác long hóa thành một dòng suối trong mát, nước tuôn ra từ nước mắt của nó.

Về sau có kẻ tham lam lập trà quán bên dòng suối này và thu phí người đến lấy nước. Nhị Lang Thần tức giận, phong kín miệng suối, khiến nước bị ép chảy ngầm ra chỗ khác – trồi lên từ khe đá lớn dưới chân núi, trong vắt, ngọt lành, người đời gọi là “Bức Tuyền” (suối bị ép bật ra).

Dòng nước sau đó tụ thành một cái đầm, được gọi là Bức Tuyền Đàm (逼泉潭). Vì nước có màu xanh ngọc nên còn được gọi là Bích Tuyền Đàm (碧泉潭). Vị trí đầm này nằm tại xã Cẩm Thạch, huyện Tương Đàm, tỉnh Hồ Nam.

Truyền thuyết về vua Kiến Văn và ấm “Bức Tuyền”

Vào ngày 13 tháng 7 năm Kiến Văn năm thứ 4 (1402), cổng Kim Xuyên Môn của kinh đô Ứng Thiên (nay là Nam Kinh) thất thủ. Chu Đệ – Yên vương lấy danh nghĩa “Tĩnh nạn” để phát binh cướp ngôi. Vua Chu Doãn Văn (朱允炆)mất tích, không rõ tung tích.

Những người cảm thương vua Kiến Văn thì kể rằng ông đã cải trang thành tăng nhân, lẩn trốn đến Lâm Xuyên, Phủ Châu, Giang Tây, rồi vào năm Vĩnh Lạc thứ 2 (1404) ẩn cư tại Bích Tuyền Đàm, lấy tên mới là Hà Tất Hoa (何必华), qua đời tại nơi đây, hưởng thọ 87 tuổi.

Tại Tương Đàm truyền tụng một bài dân ca về rồng Bích Tuyền:

“Đầu ở Giang Tây thiết thụ quán,
Đuôi tại Hồ Nam Bích Tuyền đàm.
Lắc một cái, vẫy một cái,
Gột rửa Hồ Nam thành Trung Hải.”

Ấm “Bức Tuyền” và hình tượng văn hóa

Vào cuối Minh đầu Thanh, các quan điểm đối lập về Minh Thành Tổ Chu Đệ và vua Kiến Văn cùng tồn tại.

Nhà học giả Trương Đại (张岱) trong tác phẩm “Dạ hàng thuyền” (夜航船·吴牛喘月) kể rằng Minh Thái Tổ Chu Nguyên Chương khi nhìn thấy trán cháu nội Chu Doãn Văn có hình hơi lệch thì nói:

“Giống như nửa vầng trăng.”

Một đêm nọ, Thái tử Chu Tiêu và cháu nội Chu Doãn Văn cùng ngâm thơ về trăng mới. Chu Tiêu làm thơ:

“Đêm qua nghiêm than mất lưỡi câu,
Ai đưa lên tận đỉnh mây ngâu?
Dẫu chưa được tròn sum vầy ấy,
Cũng rọi sáng khắp cửu châu sâu.”

Chu Doãn Văn làm thơ:

“Ai dùng móng ngọc bấm trời xanh,
Vết rách mây biếc lộ rõ rành.
Bóng in hồ nước rồng chưa nuốt,
Trăng kia thẹn thùng giữa thiên thanh.”

Chu Nguyên Chương nghe thấy câu “chưa tròn”“bóng rơi sông hồ”, đều cho là điềm chẳng lành.

Thiết kế ấm “Bức Tuyền” mang hàm ý sâu xa

Có người từ những điển tích đó mà thiết kế dáng ấm tử sa gọi là “Bức Tuyền”:

  • Tay cầm (把) tạo hình nửa vầng trăng

  • Nút nắp là đầu rồng quay lại

  • Miệng vòi hướng lên trời – gọi là “chầu thiên trực lưu” (朝天直筒沩流)

  • Tay cầm cao hơn miệng ấm,

  • Nắp ấm hình khuyết nguyệt (却月), không thể xoay tròn – mang ý “bóng in hồ nước, rồng không dám nuốt”.

Tuy các truyền thuyết này không thấy trong chính sử, nhưng phản ánh sâu sắc dân ý và lòng người trong lịch sử.



Ấm “Bích Tuyền” (碧泉壶 (Hiện đại – chế tác bởi Cố Thiệu Bồi 顾绍培)



Tác phẩm phá vỡ hình thức truyền thống, với đường nét tinh giản, bố cục không gian sáng thoáng, tạo nên sự hài hòa giữa thực và hư.

Thân ấm có khắc chữ triện kiểu Khải:

“Từ xưa các loại ấm trà đều chia thành ba chất: gốm, kim loại và ngọc.
Trải qua thời gian dài thẩm định và so sánh, những người yêu trà đã chứng minh:

  • Gốm sứ tuy tinh xảo đẹp đẽ, nhưng không hiểu tính trà
  • Kim ngọc tuy quý giá, lại không hợp với tính trà
  • Chỉ có đất tử sa Dương Hiên cổ, nay là Nghi Hưng, là chất liệu làm ấm tương thích hoàn hảo với trà tính.
Trà ngon kết hợp cùng ấm tử sa, gọi là trân châu ngọc bích xứng đôi, hỗ trợ lẫn nhau tỏa sáng.

Nói về cái đẹp:

  • Cái đẹp của sứ nằm ở lớp da
  • Cái đẹp của kim ngọc nằm ở giá trị
  • Cái đẹp của ấm đất nung (tử sa), nằm ở chất và cốt cách.

Bút tích ghi:

“Tháng Chạp năm Đinh Hợi (2007),
Thiệu Bồi làm ấm – viết văn – khắc gốm,
ngợi ca tử sa Nghi Hưng.
Đề: Đào Viên – Cố (顾)”