Cách phân biệt “Thiếu lửa” và “Quá lửa”

07-11-2025

Cách phân biệt “Thiếu lửa” (欠火) và “Quá lửa” (过火)


Nhiệt độ thiêu thành của đất tử sa thường cao hơn so với nguyên liệu gốm thông thường, dao động từ 1000°C đến 1250°C, tùy theo từng loại đất.


Trong nghề, có một thuật ngữ quan trọng gọi là “ăn lửa” (吃温) – tức là nhiệt độ tối ưu mà một loại đất tử sa có thể “chịu đựng” tốt nhất khi nung.

  • Chu Nê (朱泥) có ngưỡng ăn lửa thấp nhất

  • Tiếp đến là Hồng Nê (红泥)

  • Đoàn Nê (团泥) có khả năng ăn lửa cao nhất


Nhưng ngay cả cùng một loại đất, nếu khác vùng mỏ, khác phương pháp luyện đất, khác thời gian ủ đất, thì nhiệt độ tối ưu cũng khác nhau.


Trước khi dùng đất (đặc biệt là theo lô), người thợ giỏi sẽ luôn:

  • Nung thử các mẫu kiểm nghiệm (试片) để kiểm tra hiệu ứng ở nhiều mức nhiệt.

  • Từ đó xác định mức nhiệt tốt nhất cho mẻ ấm đó.


Khi nhiệt độ nung lệch khỏi điểm tối ưu chỉ cần ±10°C, sẽ xuất hiện hai hiện tượng sai lửa:

1. Thiếu lửa (欠火 / chưa đủ nhiệt)

  • Nguyên nhân: Đất chưa “ăn” đủ lửa cần thiết.

  • Biểu hiện:

    • Bề mặt ấm có màu xám tro, xỉn nhạt

    • Gõ vào phát ra tiếng trầm, không vang

    • Thân ấm xốp, không đặc chắc

    • Chưa đạt đến trạng thái thiêu kết hoàn toàn

2. Quá lửa (过火 / vượt quá nhiệt)

  • Nguyên nhân: Nhiệt độ vượt ngưỡng đất có thể chịu được.

  • Biểu hiện:

    • Thân ấm bị biến dạng, méo mó

    • Xuất hiện bọt khí (起泡) trên bề mặt

    • Có thể hình thành tinh thể sắt kết tụ (铁质结晶) – làm bề mặt sần sùi, chấm đen


Tóm tắt ứng dụng thực tế

Hiện tượng

Nguyên nhân

Biểu hiện

Tác hại

Thiếu lửa (欠火)

Nhiệt chưa đủ so với điểm “ăn lửa”

Màu tro xám, tiếng trầm, xốp

Không dùng tốt, dễ nứt sau thời gian

Quá lửa (过火)

Nhiệt vượt mức đất có thể chịu

Biến dạng, phồng, nổi bọt, kết tinh sắt

Ấm hỏng, mất giá trị sử dụng/làm sưu tầm