“Thi Văn Ngưu Cái” (诗文牛盖壶) do Trữ Minh (储铭) chế, Thiệu Vân Nho (邵云儒) khắc

Thân ấm một mặt khắc tiền đồng, ngọc móc (mông khắc bố tệ, ngọc câu - 蒙刻布币、玉钩) và vân ngói (văn ngõa - 纹瓦), lạc khoản là “Phỏng kim tố bản, nham như sinh khắc” (仿金素本,岩如生刻 - Phỏng theo nguyên bản bằng vàng, do Nham Như khắc sống).
Mặt còn lại khắc câu thơ (khảm khắc - 镌刻): “Nhân gian châu ngọc an túc thủ, khởi như Dương Tiễn Khê đầu nhất hoàn thổ” (人间珠玉安足取,岂如阳羡溪头一丸土。- Châu ngọc nhân gian lấy sao đủ, há bằng một nắm đất đầu suối Dương Tiễn). Ý nghĩa của câu thơ này xem thêm trang 1001 sách. "Nham Như Sinh" (岩如生) chính là Duẫn Vân Nho (即云儒 - Tức Vân Nho).
“Xuân Ngưu” (春牛壶) do Vương Hồng Phương (王洪芳) chế

Sản phẩm của Xưởng Tử Sa Nghi Hưng số 1 (宜兴紫砂一厂 - Yíxīng Zǐshā Yī Chǎng) vào thập niên 80 thế kỷ 20. Chân tròn (quyên túc - 圈足), thân ấm hình bình chứa (guàn - 罐), trên đầy dưới thon (thượng phong hạ khảm - 上丰下敛), vòi thẳng, dày (trực khẩu thô tố lưu - 舌口粗短流), quai tai tròn (viên nhĩ bả - 圈耳把). Nắp nén (áp cái - 压盖) nhô cao (cái diện bàn khởi - 盖面盘起), hai bên có khoét lỗ mũi bò (oạt ngưu tị khổng - 挖牛鼻孔).