Lục nê (绿泥), chủ yếu được khai thác tại núi Hoàng Long (黄龙山) ở Đinh Thục trấn, Nghi Hưng, dân gian gọi là “Bổn sơn lục nê” (本山绿泥). Nguyên khoáng có màu xanh nhạt, sau khi nung sẽ chuyển thành màu vàng gạo (米黄色) nếu nhiệt độ thấp, màu vàng chanh (柠黄色) nếu nhiệt độ thích hợp, hoặc màu xanh đồng (青铜色) nếu nhiệt độ cao hơn.
Lục nê là khoáng chất nằm xen kẽ trong tầng quặng của tử nê (紫泥), thường bị đứt quãng, có khi không có, lớp dày nhất chưa tới 1 mét, mỏng chỉ khoảng hơn 10 cm. Chỉ khi khai thác mỏ tử nê mới có thể tình cờ đào được hoặc kèm theo lục nê, nên trữ lượng rất hiếm.
Thành phần khoáng của lục nê gồm cao lanh (水云母), cao lĩnh thạch (高岭石), đá anh (石英), khoáng mẹ (白云母) cùng một lượng nhỏ các hợp chất hữu cơ chứa sắt và ôxy sắt.
Sự khác biệt lớn nhất giữa lục nê với hồng nê (红泥) và tử nê (紫泥) nằm ở hàm lượng sắt trong nguyên liệu rất thấp. Do thiếu sắt nên khoáng có màu xanh. Hàm lượng titan trong lục nê khá cao, vì vậy khi nung kết sẽ tạo thành màu vàng sữa.
Việc thêm oxit titan (钛白粉) vào đất sét trắng là phương pháp thường thấy để làm giả lục nê.
Lục nê có thể phân thành lớp dính và lớp rắn, cũng như có thể phân thành các màu nhạt, đậm, xanh, xám, mực… Nếu khoáng nằm dưới lớp đá anh (long cốt 龍骨), thì hàm lượng đá anh cao, lượng phù sa ít, độ thông khí tốt hơn, nhưng nhiệt độ nung yêu cầu cao, dễ nứt nẻ, tỷ lệ thành phẩm thấp. Nếu nằm giữa lớp tử nê (“bùn trong bùn” 泥中泥) thì hàm lượng đá anh thấp, lượng phù sa nhiều, độ thông khí kém, nhưng nhiệt độ nung thấp, ít nứt, tỷ lệ thành phẩm cao.
Lục nê sau khi nung có kết cấu tơi, thường không dùng trực tiếp để tạo hình.
Vì trữ lượng ít, sản phẩm lớn từ lục nê khó nung thành công, nên lục nê chủ yếu dùng để làm các vật phẩm nhỏ. Nếu trộn thêm một lượng thích hợp chất tạo màu, có thể biến hóa thành nhiều loại nê trang trí, thường dùng làm lớp trang trí màu trên bề mặt ấm tử nê.