Trang trí “giảo nê” (绞泥) trên ấm tử sa là gì?
Là kỹ thuật dùng hai hoặc nhiều loại đất tử sa có màu sắc khác nhau nhưng nhiệt độ nung giống nhau, được trộn xen kẽ và xoắn vặn biến hóa, sau đó theo thiết kế mà cắt thành từng mảnh đất, rồi dán lên phôi gốm đã tạo hình, hoặc dùng toàn bộ đất giảo nê để tạo hình toàn bộ ấm.
Kỹ pháp này gọi là “giảo nê” (绞泥), còn gọi là “giảo thai” (绞胎) hoặc “trộn thai” (搅胎).
Kỹ pháp này bắt nguồn từ kỹ thuật sơn mài “tê tỉ” (犀毗) – đọc là xī pí – tức là lớp sơn xoáy tầng tầng lớp lớp, giống như rốn của con tê giác. Vào thời Đường đã đạt đến trình độ khá cao.
Các kỹ pháp phối đất giảo nê bao gồm: lót nền, phân lớp, chồng lớp, nhào trộn, khảm nê, ghép đất, ép khuôn, đắp tròn… tạo ra các hoa văn phong phú đa dạng, thường thấy có: vân gỗ, sóng nước, mây trôi, lông vũ, bướm, hoa tròn, da tê giác, v.v.
Giảo nê trong tử sa xuất hiện sớm nhất trên truyền khí thời Minh. Do độ co ngót của các loại đất khác nhau, nên để giảo nê đạt độ kết dính chặt chẽ và bề mặt nhẵn mịn như một khối, phải qua nhiều lần thử nghiệm và nung thử mới có thể thành công.
Trong sáng tác ấm tử sa đương đại, người đầu tiên kế thừa cổ pháp giảo nê là Lý Xương Hồng (李昌鸿).Ông đã sáng tác hũ giảo nê, ấm Tùng Đoạn giảo nê vào năm 1958.
Người vận dụng kỹ thuật giảo nê thành thục và đạt thành tựu cao nhất là Lữ Nghiêu Thần (吕尧臣).
Tác phẩm “Thiên Tế” (天际) của ông là kiệt tác giảo thai toàn bộ;
Ấm “Hoa Kính” (华径) mô phỏng đá mưa hoa, dùng đất giảo thai nặn thành viên đá ngũ sắc, khảm thành lối đi hoa trên vai ấm;

Tác phẩm “Bát Phương Vân Văn” (八方云纹) vận dụng thành công kỹ thuật giảo thai dán bề mặt.
