Cố Cảnh Châu

Tên tiếng Trung: 顾景舟
Tên tiếng Anh:Gu Jingzhou
Năm sinh:1915
Chức danh:

Tiểu sử nhân vật: Cố Cảnh Châu (顾景舟)

Bậc Thái đẩu đương đại của nghệ thuật ấm tử sa

 

Tuổi thơ và quá trình học tập

 

Cố Cảnh Châu sinh ngày 18 tháng 10 năm 1915 (năm Dân Quốc thứ 4) tại thôn Thượng Viên, xã Xuyên Bộ, huyện Nghi Hưng, tỉnh Giang Tô (nay là thôn Tử Sa, trấn Đinh Thục). Tên khai sinh là Cố Cẩm Châu (顾锦洲). Gia đình ông từng có điền sản nhỏ, cha mẹ và bà nội thường làm ấm tử sa để kiếm sống, nhưng không phải là nghệ nhân nổi tiếng. Gia đình từng sa sút vì ông nội mê cờ bạc, cha nghiện thuốc phiện.

 

Tuy gia cảnh sa sút, cha mẹ kỳ vọng ông theo con đường học vấn, không định cho ông nối nghiệp làm ấm. Năm 1920, ông được gửi vào Tiểu học Đông Pha ở Nghi Hưng, đổi tên thành Cố Cảnh Châu. Chương trình học gồm Tứ Thư, Ngũ Kinh, Anh văn, Nhật văn, Toán, Lịch sử, Địa lý, Âm nhạc…

 

Duyên khởi với tử sa

 

Năm 1932, do gia cảnh khốn khó, ông nghỉ học và bắt đầu học nghề từ bà nội, tự hiệu “Mặc Duyên Trai”. Từ sớm ông đã khắc các ấn “Mặc Duyên Trai Cảnh Đường Chế”, “Cảnh Tâm”, “Cảnh Ký”… điều rất hiếm lúc bấy giờ.

Năm 1934–1935, ông được cha mời nghệ nhân Sở Minh (tức Lạp Căn) về nhà truyền nghề.

Năm 1936, ông được nhà buôn đồ cổ Lang Ngọc Thư mời đến Thượng Hải làm việc tại “Lang thị Nghệ Viện”, chế tác đồ gốm phục cổ. Tại đây ông có cơ hội tiếp xúc và phục chế các danh phẩm tử sa từ thời Minh–Thanh, học hỏi phong cách của các nghệ nhân như Thời Đại Bân, Trần Minh Viễn, Thiệu Đại Hanh. Giai đoạn này, ông khắc ấn “Vũ Lăng Dật Nhân”, tiến bộ vượt bậc về kỹ pháp và nhãn lực thưởng giám.

 

Thời kỳ khó khăn

 

Năm 1938, do chiến tranh Trung–Nhật, ông về lại Nghi Hưng.

Năm 1939, mắc bệnh đậu mùa, thoát chết trong gang tấc. Sau đó, vừa làm ấm vừa tự học nghiên cứu văn hóa và gốm sứ.

Năm 1942, ông được mời làm kỹ sư tại Công ty Gốm Tiêu chuẩn Thượng Hải với lương tháng 100 đồng đại dương, một mức cao thời ấy. Ông tự hiệu “Tự Di Hiên”, khắc ấn “Đắc nhất nhật nhàn vi ngã phúc” và “Túc ngô sở hảo ngoạn nhi lão yên”. Tuy nhiên, cuối năm phải về quê vì công ty bị tẩy chay.

Năm 1944, ông làm các bộ trà cụ “Đoản trúc đoạn” để mưu sinh. Khắc ấn “Sấu Bình”, “Lão Bình”, mượn ý phiêu bạt.

 

Thành danh và chuyên tâm với nghệ nghiệp

 

Năm 1946, ông nhận làm đơn hàng 110 ấm phục cổ cho Hội nghị Ngân hàng Nông dân, kỷ lục lớn nhất đời ông.

Năm 1948, đi về giữa Thượng Hải và Nghi Hưng, giao lưu với các họa gia như Ngô Hồ Phàm, Đường Vân, làm loạt ấm Thạch Tiêu. Từ đây đổi tên thành Cố Cảnh Chu (顾景舟), ví mình như con thuyền trên biển nghệ thuật.

 

Cống hiến hậu Cách mạng

1951: Gần như mắc bệnh lao, phải nghỉ việc, từ đó càng chuyên tâm nghiên cứu kỹ thuật và lịch sử tử sa.

1952: Nhận người đệ tử đầu tiên – Từ Tổ Thuần.

1953: Dự Triển lãm thủ công mỹ nghệ toàn quốc, được gặp các lãnh đạo nhà nước.

1954–1955: Góp phần thành lập Xưởng Tử Sa Thục Sơn. Làm ấm Như Ý Vân Văn Đỉnh. Cùng với Chúc Khả Tâm, Nhâm Cảm Đình, Vương Dần Xuân, Tưởng Dung… được gọi là “Thất lão tử sa”. Nhận các đệ tử: Lý Xương Hồng, Thẩm Cừ Hoa, Vương Á Kiệt…

1956–1957: Được phong danh hiệu “Nghệ nhân công nghệ” và “Kỹ thuật hướng dẫn”, dự Hội nghị nghệ nhân thủ công mỹ nghệ toàn quốc.

1958: Phản đối cơ giới hóa mù quáng, bị phê phán là “hữu khuynh”, chuyển sang xưởng cơ khí. Dù vậy vẫn nhận Chu Quế Trân làm đệ tử.

1959–1964: Làm Phó sở trưởng Nghiên cứu kỹ thuật, sáng chế các sản phẩm dân dụng như ly bia, ấm chà bông, chậu cảnh cao cấp. Truyền kỹ thuật làm chậu cho các nghệ nhân Chu Tôn Nghiêm, Phan Trì Bình…

1965: Bị quy là “quyền uy phản động” trong thời Cách mạng Văn hóa.

 

Nghiên cứu và đổi mới

1972–1980: Sáng tác nhiều mẫu ấm như Tuyết Hoa, Thạch Tiêu, Hán Đạc… Giúp đoàn phim Thượng Hải quay phim tài liệu “Tử sa đào”.

1981–1983: Dẫn đoàn đi Hong Kong, giảng về tử sa. Dự triển lãm tại Bắc Kinh. Giám định hơn 700 món tử sa cho Cố Cung. Sáng tác ấm Chút Cúc, Tiểu Cung Xuân, Thạch Lựu, Liên Tử.

1984: Vợ mất. Làm thơ thất ngôn tuyệt cú để tự khích lệ.

1985–1988: Dự triển lãm tại Hong Kong. Được phong danh hiệu “Đại sư mỹ thuật công nghiệp Trung Quốc”.

1989: Sáng tác loạt ấm mới, khắc văn kim văn. Được phong “Công nghệ mỹ thuật gia cao cấp”.

1990–1993: Tham gia tưởng niệm Chu Kỳ Chiêm, lập Quỹ khuyến học Cố Cảnh Châu, viết sách “Di Hưng tử sa trân thưởng”, giảng tại Đài Loan.

1992: Bưu chính Trung Quốc phát hành tem ấm tử sa với mẫu của ông.

1996: Qua đời ngày 3 tháng 6 tại bệnh viện Nhân dân số 1 Nghi Hưng, thọ 81 tuổi.

 

 

Ảnh hưởng và thành tựu

 

Phong cách nghệ thuật

Cố Cảnh Châu vận dụng mỹ học hiện đại vào thiết kế ấm tử sa, mở ra cảnh giới mới cho nghệ thuật ấm trà. Ông cho rằng tử sa giống thư pháp và hội họa, có phân phẩm cấp: thần phẩm, cực phẩm, tinh phẩm, năng phẩm. Ông đề cao 4 yếu tố thẩm mỹ: hình (), thần (), khí (), thái () – tức hình dáng, thần thái, khí vận và tư thế. Các tác phẩm tiêu biểu như:

• Ấm Cà phê ba đường (三线咖啡壶): hình dáng ngay ngắn, phối hợp hài hòa.

• Ấm Thạch Tiêu (石瓢壶): ba chân vững, thân tròn, vòi đẹp, bố cục tinh tế.

 

Thành tựu học thuật

Là người đầu tiên trong giới tử sa hệ thống hóa lý luận, thu thập và sao chép tài liệu cổ như 《阳羡茗壶系》《阳羡名陶续录》. Nghiên cứu các di chỉ gốm cổ, đặc biệt di chỉ thời Tống ở Dương Giác Sơn (蠡墅羊角山).

Viết các luận văn như:

《壶艺说》

《壶艺的形神气》

《宜兴紫砂壶艺概要》

《简谈紫砂陶艺鉴赏》

《壶艺的继承与创新》

《紫砂生产质量管理条例》

 

Cuối đời, cùng học trò Lý Xương Hồng vẽ lại và quy chuẩn hóa các mẫu hình tử sa truyền thống. Năm 1991, biên tập sách 《宜兴紫砂珍赏》 – tác phẩm học thuật đầu tiên do nghệ nhân tử sa viết.

 




Điểm nổi bật:
  • Cấp 8: Đại sư Mỹ thuật Công nghiệp Trung Quốc (中国工艺美术大师)
  • Lão nghệ nhân
  • Chế tác tử sa
Ấm đã sưu tầm:
Loại đất:Lão Tử Nê
Dung tích (ml):300
Loại đất:Lão Tử Nê
Dung tích (ml):350
Loại đất:Minh đại lão tử nê
Dung tích (ml):550
Loại đất:Cố thị lão tử nê
Dung tích (ml):250
Loại đất:Chu sa thời Thanh sớm, truyền thừa dòng họ Cố
Dung tích (ml):300